Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2016

Các biện pháp chống nắng

Một ít ánh nắng mặt trời quan trọng cho sức khỏe của bạn. Vitamin D, cần thiết để phát triển và duy trì cho xương chắc và khỏe, được sản xuất ra khi da tiếp xúc với bức xạ cực tím. Tuy nhiên, bạn chỉ cần ở dưới ánh nắng mặt trời khoảng mười phút vào hầu hết các ngày trong tuần, ngoại trừ thời gian tia cực tím đạt đỉnh, để sản xuất đủ lượng vitamin D cho một sức khỏe tốt.

Làm gì khi bị cháy nắng?


Cháy nắng có nhiều mức độ và tùy theo mức nặng nhẹ mà thời gian lành có thể từ vài ngày đến vài tuần. Cháy nắng nhiều lần làm xuất hiện sớm các nếp nhăn sâu và gia tăng rủi ro ung thư da. Một khi tổn hại về da xuất hiện thì không đảo ngược được quá trình. Đó là lý do vì sao phòng tránh tốt hơn nhiều việc chữa trị.

Các bố mẹ cho các con đi nghỉ hè hãy nhớ áp dụng các biện pháp chống nắng cho mình và các con. Nếu có lỡ bị cháy nắng do mải vui thì tham khảo các xử lý khi bị cháy nắng dưới đây.

Mặt trời thấy chúng ta như thế nào?

Như đã chia sẻ trong bài về kiến thức chống nắng, vì tia UV không nhìn hay cảm nhận được nên những tổn hại về da khi chưa có dấu hiệu rõ ràng thường khó để cảm nhận, hay hình dung trừ khi được nhìn qua ống kính UV (Ultraviolet Lens). 

Cảm ơn tác phẩm quá tuyệt của Thomas Leveritt đã cho ta thấy cái nhìn trực quan các tổn thương ẩn giấu trên da và tác dụng của kem chống nắng. Hãy cùng xem để thấy con người trông như thế nào dưới góc nhìn của mặt trời 




Kiến thức về chống nắng


Sống tại quốc gia nhiệt đới, người Việt có mức độ tiếp xúc với ánh nắng cao. Tắm nắng giúp tổng hợp vitamin D nhưng quá nhiều sẽ gây cháy nắng, ko chỉ làm da rám sạm mà còn làm tăng nguy cơ ung thư da do sự tiếp xúc quá mức bức xạ cực tím (UV) từ mặt trời. Kiến thức về chống nắng sẽ giúp mình biết cách tiếp xúc ánh nắng hợp lý và vẫn đảm bảo thẩm mỹ và an toàn cho da. 

Nội dung này mình tìm đọc trên trang web chương trình SunSmart phòng chống ung thư da của Úc, quốc gia có tỷ lệ ung thư da cao nhất thế giới và có mức bức xạ cực tím rất mạnh. Hãy cùng bắt đầu tìm hiểu sơ bộ về tia UV.

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016

Bã nhờn, mồ hôi, độ pH da và màng axit bảo vệ da (Acid Mantle)

Theo Tiến sỹ Sinh vật học Dr. G. Todorov trên trang smartskincare.com

Bã nhờn là dầu tiết ra từ các tuyến nhờn, các ống dẫn li ti sát ngay các nang lông. Bã nhờn được tiết vào nang lông, từ đó trải ra khắp da và tóc/lông. Vai trò chính của bã nhờn là chống thấm nước cho da và lông/tóc. Tiết nhờn ít quá hay nhiều quá đều là điều không mong muốn. Quá nhờn đi kèm với da dầu và mụn. Điều này đặc biệt thường thấy ở tuổi dậy thì do mức cao hơn hooc môn sinh dục kích thích tăng sinh nhờn. Thiếu nhờn, thường thấy ở tuổi trung và cao niên, lại dẫn đến khô da và gia tăng hình thành nếp nhăn sâu. 

Thứ Hai, 4 tháng 4, 2016

Sự khác biệt giữa các định mức dinh dưỡng

Hiểu sự khác biệt giữa các định mức dinh dưỡng: Định mức khuyến nghị và định mức tối ưu

Bài viết của tác giả Tanner Gibb Technical Comm/Education Manager. Công ty Pharmanex

Bạn có phải là một trong số hàng triệu người muốn ăn lành mạnh nhưng lại thấy cuộc sống thật phũ phàng? Quá thường xuyên, việc thiếu các lựa chọn thức ăn lành mạnh với lối sống cuồng nhiệt làm cho việc ăn uống tối ưu về dinh dưỡng thật khó để đạt được.

Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2016

Các phân tử quan trọng của da

Theo Tiến sỹ Sinh vật học Dr. G. Todorov trên trang smartskincare.com

Da khỏe, đàn hồi hay trông tươi trẻ phụ thuộc nhiều thứ, trong số đó có vài loại phân tử sinh học chủ chốt, cũng giống như chất lượng của ngôi nhà phụ thuộc vào chất lượng của gạch, rầm xà và bê tong. Các phân tử quan trọng nhất của da là collagen, elastin, glycosoaminoglycans và proteoglycans.

Da cấu tạo như thế nào?


Theo Tiến sỹ Sinh vật học Dr. G. Todorov trên trang smartskincare.com:

Da là cơ quan lớn nhất trong cơ thể, chiếm khoảng 15% trọng lượng toàn thân. Bề mặt da của người trưởng thành có diện tích từ 1.1-1.8 m2 (12-20 feet vuông). Về thành phần hóa học, da có khoảng 70% là nước, 25% là đạm (protein) và 2% chất béo (lipids). Phần còn lại bao gồm khoáng chất vi lượng, axit nucleic, glycosoaminoglycans, proteoglycans và nhiều chất hóa học khác.